Diego Forlan – Gã du mục vươn lên từ lời hứa với chị gái

Danh hiệu “Qủa bóng vàng” World Cup 2010 là đỉnh cao nhất và cũng là cuối cùng mà anh làm được trong sự nghiệp bóng đá của mình. Có thể nói, World Cup là giải đấu mà không phải ai cũng có thể toả sáng dù họ đã từng “bá đạo” tại cấp câu lạc bộ. Forlan là một ngoại lệ, anh là người từng bị coi như “kẻ bỏ đi” nhưng bằng nỗ lực của bản thân đã giúp tiền đạo này vươn lên đúng thời điểm. Sự nghiệp của Diego Forlan có thể được đánh giá như một đoá hoa sớm tàn nhưng nở muộn là vì lẽ đó!

1. Danh hiệu và thành tích

Manchester United
  • Ngoại hạng Anh: 2002–03
  • Cúp FA: 2003–04
  • Siêu cúp Anh: 2003
Villarreal
  • Cúp Intertoto: 2004
Atlético Madrid
  • UEFA Europa League: 2009-10
  • Siêu cúp bóng đá châu Âu: 2010
ĐTQG Uruguay
  • Cúp bóng đá Nam Mỹ: 2011
Cá nhân
  • Chiếc giày vàng châu Âu: 2004–05, 2008–09
  • Pichichi Trophy: 2004–05, 2008–09
  • Quả bóng Vàng giải vô địch bóng đá thế giới: 2010
  • Đội hình tiêu biểu FIFA World Cup 2010

2. Tiểu sử

Diego Martín Forlán Corazo sinh ngày 19 tháng 5 năm 1979. Anh là một cựu cầu thủ bóng đá người Uruguay đã hai lần đoạt danh hiệu chiếc giày vàng châu Âu và giải Pichichi (giải cho cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất La Liga trong một mùa bóng) năm 2004-05 và 2008-09, danh hiệu Quả bóng Vàng giải vô địch bóng đá thế giới 2010.

3. Sự nghiệp câu lạc bộ

Independiente

Khác với các ngôi sao bóng đá thế hệ 7x vốn ăn tập bóng đá từ nhỏ với định hướng sự nghiệp rõ ràng, Forlan khởi đầu muộn hơn rất nhiều. Anh bắt đầu ở tuổi 13, đá trận chính thức đầu tiên trong sự nghiệp cho Independiente (Argentina) năm 18 tuổi, hai năm sau khi sang thử việc và bị CLB Nancy của Pháp từ chối.

Trong bốn năm khoác áo Indipendiente, Forlan đạt hiệu suất ấn tượng với một cầu thủ trẻ: 40 bàn qua 91 trận. Các tuyển trạch viên của bóng đá Anh không thể bỏ qua tài năng trẻ này và tới kỳ chuyển nhượng tháng 1/2002, Forlan lần thứ hai tới châu Âu để khoác áo Middlesbrough. Independiente đồng ý bán Forlan với giá 6,9 triệu bảng (8,4 triệu USD) cho CLB Anh với tổng cộng 18 đợt thanh toán và thương vụ này chỉ còn thiếu chữ ký của cầu thủ người Uruguay.

Manchester United

Với quãng thời gian chơi bóng xuất sắc tại Independiente, Diego Forlan đã kiếm cho mình tấm hộ chiếu hoàn hảo để gia nhập Manchester United. Thế nhưng, mảnh đất xứ sương mù khi đó chưa phải là nơi mà những con người Nam Mỹ có thể trình diễn những thứ tinh tuý nhất của họ với trái bóng.

Phải trải qua 8 tháng liền với 27 trận đấu, Forlan mới ghi bàn đầu tiên cho Man Utd. Đó là những phút cuối trận vòng bảng Champions League, khi “Quỷ Đỏ” đang dẫn Maccabi Haifa 4-2 và được hưởng một quả phạt đền. Forlan chủ động bước lên xin David Beckham để được thực hiện quả penalty và vỡ òa cảm xúc sau khi đưa trái bóng vào lưới.

Những tưởng bàn thắng kể trên sẽ giúp tiền đạo người Uruguay “thông nòng”. Nhưng mọi chuyện không hề suôn sẻ. Trong hơn hai năm khoác áo Man Utd, anh chưa khi nào đem lại cảm giác tin cậy như chân sút chủ lực Van Nistelrooy hay thậm chí “siêu dự bị” Solskjaer. Hai ký ức người hâm mộ “Quỷ Đỏ” nhớ nhất về anh là cú đúp vào lưới Liverpool tháng 12 năm 2002, và màn mừng bàn thắng cuồng nhiệt trước Southampton.

Gần 3 năm chơi bóng tại sân Old Trafford là gần 1.000 ngày ác mộng của tiền đạo này, anh chỉ có vỏn vẹn 63 lần ra sân và ghi được 10 bàn thắng. Quá ít ỏi cho những kì vọng mà Sir Alex Ferguson đã từng mong muốn khi đưa anh về từ Argentina (Independiente thuộc Argentina).

Giá như ngày đó Forlan không quá “mê muội” đội bóng từng lên đỉnh Châu Âu năm 1999 thì có lẽ anh đã gia nhập Middlesbrough. Đó là đội bóng Anh đầu tiên tiếp xúc và gần như đã có được tiền đạo này với mức giá khoảng 6 triệu bảng.

Villarreal

Trên thực tế, khi rời khỏi nước Anh, Diego Forlan chỉ mới 25 tuổi, độ tuổi vẫn chưa thực sự là đỉnh cao trong bóng đá. Trong khoảng 7 năm, từ 2004 đến 2011, Diego Forlan đã lột xác hoàn toàn để trở thành “sát thủ” có số má nhất bóng đá Châu Âu nửa sau thập niên đầu của thế kỷ này.

Chuyển đến “tàu ngầm vàng” Villarreal vào mùa hè năm 2004, ngay lập tức Forlan đã biến đội bóng chỉ biết chơi ở UEFA Cup lên tham dự Champions League, dù chỉ là vòng sơ loại. Cũng trong năm đó, Diego Forlan đã ghi đến 25 bàn thắng tại La Liga và trở thành chủ nhân của danh hiệu Pichichi cũng như chiếc giày vàng Châu Âu (chia sẻ với Thierry Henry của Arsenal).

Ở mùa giải sau, Forlan cùng với những Juan Roman Riquelme hay Juan Pablo Sorin,… đã đưa Villarreal vào đến bán kết Champions League sau khi thất bại trước chính Arsenal của Thierry Henry. Đây quả là một bước tiến to lớn trong lịch sử đội bóng có biệt danh “Tàu ngầm vàng” khi biết rằng, cho đến tận bây giờ họ chỉ còn là cái bóng so với quá khứ.

Atletico Madrid

Tuy nhiên, Villarreal vẫn chưa phải đỉnh cao của anh chàng từng lụi tàn trong màu áo Man Utd. Sau khi Fernando Torres đến với Liverpool, đó cũng là lúc Ban lãnh đạo đội bóng thủ đô, Atletico Madrid chiêu mộ anh với mức giá lên tới 21 triệu bảng vào năm 2007.

Từ đó, khái niệm “Atletico và những siêu tiền đạo” đã ra đời. Forlan chơi bóng ở Vicente Calderon (sân nhà cũ của Atletico) trong khoảng 4 năm, anh chơi 198 trận và ghi được 96 bàn thắng. Đặc biệt, với 32 bàn ở mùa giải 2008-09 đã giúp Forlan một lần nữa giành chiếc giày vàng Châu Âu cũng như Pichichi, ở khoảng thời gian mà anh phải cạnh tranh trực tiếp với những Samuel Eto’o, Lionel Messi của Barcelona, Cristiano Ronaldo (Man Utd) hay David Villa của Valencia.

Chân sút của Atletico tiếp tục có một mùa giải 2009-10 thành công rực rỡ với 28 bàn, trong đó có sáu bàn tại Europa League để đưa đội nhà lên ngôi vô địch. Trong trận chung kết Europa League trước Fulham, Forlan ghi cả hai bàn giúp Atletico thắng 2-1, còn bản thân được bầu làm Cầu thủ hay nhất trận. Những tưởng đó sẽ là đỉnh cao của Forlan trong năm 2010, song tiền đạo này tiếp tục mang lại những bất ngờ. Từ một đội bóng không được đánh giá quá cao trước giải, Uruguay thẳng tiến vào bán kết với điểm tựa là hàng công xuất chúng. Nếu Suarez cho thấy sự tinh quái trong lối chơi và sẵn sàng dùng tiểu xảo chơi bóng bằng tay trước Ghana, thì Forlan lại là linh hồn trong mọi đường lên bóng của đội bóng Nam Mỹ. Năm 2010 còn tiếp diễn ngọt ngào với Forlan khi anh cùng Atletico Madrid đoạt Siêu Cup châu Âu nhờ chiến thắng trước Inter Milan.

Những năm cuối sự nghiệp

Chỉ một năm sau đó, Forlan sang Italy khoác áo chính Inter với kỳ vọng thay thế Eto’o. Nhưng lần này, anh không thể tái hiện thành công như khi lấp đầy khoảng trống của Torres tại Atletico trước kia. Trong 20 trận cùng Inter, Forlan ghi vỏn vẹn hai bàn. Inter là đội bóng châu Âu cuối cùng mà Forlan khoác áo, và trong những năm tháng cuối sự nghiệp, anh giống một gã du mục. Sau hai năm gắn bó cùng Internacional , Forlan tới Nhật Bản khoác áo Cerezo Osaka hai mùa giải rồi trở về quê nhà chơi cho Penarol. Hai mùa giải cuối sự nghiệp của Forlan diễn ra tại châu Á, lần lượt với Mumbai City rồi Kitchee.

4. Đội tuyển quốc gia

Forlán ra mắt cho Uruguay vào ngày 27 tháng 3 năm 2002, ngay lập tức anh ghi bàn thắng đầu tiên trong trận thua giao hữu 3-2 trước Ả Rập Saudi. Anh và Youri Djorkaeff nhanh chóng trở thành nhân tố chủ chốt của đội tuyển trong trận gặp Pháp vòng bảng A World Cup 2002. Sau đó, Forlán đã mang số áo 21 thi đấu tại Copa América 2004 ở Peru, ngay trước khi anh chuyển từ Manchester United sang Villarreal. Anh đã chơi tất cả 6 trận đấu.

Vào ngày 16 tháng 6 năm 2010, trong trận đấu thứ hai ở vòng bảng World Cup 2010 với Nam Phi, Forlán đã ghi bàn từ chấm phạt đền, sút cao vào lưới ấn định chiến thắng 3-0 trước đội chủ nhà. Vào ngày 2 tháng 7 năm 2010, Forlán đã ghi một cú đá phạt vào lưới Ghana để cân bằng tỷ số trong trận tứ kết. Trận đấu kết thúc 1-1 và Uruguay giành vé vào bán kết sau khi đánh bại Ghana 4-2 trong loạt sút luân lưu. Vào ngày 6 tháng 7 năm 2010, Forlán đã ghi một bàn thắng tầm xa bằng chân trái trong trận bán kết gặp Hà Lan. Nhưng cuối cùng, Uruguay đã để thua 3-2. Forlán trở thành cầu thủ đầu tiên ghi ba bàn thắng từ ngoài vòng cấm trong một giải đấu. Kết thúc mùa giải, anh được trao danh hiệu Quả bóng vàng và cũng là cầu thủ ghi bàn hàng đầu tại World Cup với 5 bàn thắng.

Sau khi là niềm cảm hứng của năm 2010, Forlan tiếp tục đóng góp vào chức vô địch Copa America 2011 của Uruguay. Tại giải đấu mà Suarez chính thức lĩnh xướng hàng công và nhận giải Cầu thủ hay nhất, Forlan vẫn biết cách để lại dấu ấn.

Anh chỉ ghi hai bàn trong suốt giải đấu, nhưng đó là hai bàn thắng giúp Uruguay đánh bại Paraguay 3-0 trong trận chung kết. Hãng Reuteurs thống kê rằng các bàn thắng này giúp Forlan trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất lịch sử bóng đá Uruguay với 31 bàn, đồng thời tiếp nối truyền thống của cha ông khi cả ba thế hệ gia đình Forlan đều từng là những nhà vô địch Nam Mỹ. Sau Copa America 2011, Forlan còn tham dự thêm một kỳ Confederations Cup 2013 và World Cup 2014. Tới tháng 3/2015, anh từ giã đội tuyển quốc gia, để lại sau lưng nhiều thành tích hiển hách với 36 bàn sau 112 trận. Dù kỷ lục ghi bàn của Forlan đã bị các hậu bối Edison Cavani và Luis Suarez vượt qua, nhưng giá trị Forlan để lại cho bóng đá không chỉ ở những bàn thắng.

5. Lời kết

Diego Forlan cho thấy những phẩm chất của một tiền đạo hàng đầu thế giới: chạy không biết mệt, sút tốt bằng cả hai chân và nhạy cảm với bàn thắng. Trừ bàn thắng từ chấm phạt đền trước chủ nhà Nam Phi, cả bốn bàn còn lại của Forlan tại World Cup 2010 đều là những siêu phẩm. Anh sút xa tung nóc lưới Nam Phi và Hà Lan, đá phạt kỹ thuật hạ gục Ghana và tung người vô-lê vào lưới Đức trong trận tranh giải Ba. Không chỉ xuất sắc trong lối chơi, tinh thần rực lửa và những bước chạy không biết mệt mỏi của Forlan đã truyền cảm hứng cho toàn bộ tuyển Uruguay và những người say mê bóng đá tấn công. Anh là tấm gương mẫu mực về việc quyết tâm, nghị lực có thể đưa ta xa tới đâu. Bắt đầu chọn sự nghiệp bóng đá ở tuổi 13, bị từ chối ở tuổi 15 và tới 18 tuổi mới đá trận chính thức đầu tiên. Bị coi là thất bại tại Anh và chỉ chứng tỏ được tài năng ở tuổi 25. Có kỳ World Cup hay nhất sự nghiệp ở tuổi 31. Forlan có thể là một người bước chậm, song anh không bao giờ tụt lùi.

 >> Xem thêm: Soikeobong – Soi kèo nhà cái bóng đá chuẩn xác nhất

Bài viết cùng chuyên mục