Johan Cruyff – biểu tượng của bóng đá Hà Lan

Thật khó lòng để tìm một hình tượng nào đó để ví von cái tầm và cái tâm của Johan Cruyff nên ở vị trí của một kẻ người trần mắt thịt, xin được gọi ‘Thánh Johan’ là Columbus của bóng đá thế giới. Sở dĩ Johan Cruyff được phong ‘Thánh’ là vì bên cạnh tài năng phi thường của một ngôi sao, ông còn sở hữu triết lý sống đĩnh đạc và tư duy chơi bóng thiên tài không thể tìm thấy ở đâu khác. ‘Thánh Johan’ từng nói rằng: “Tôi được sinh ra không lâu sau thế chiến kết thúc, và tôi được dạy là không bao giờ chấp nhận đầu hàng”, và đó là lý do tại sao Cruyff đi hết từ thành công này đến thành công khác. Có thể chúng ta từng nghe phong thanh câu nói: “Chơi bóng rất đơn giản, nhưng để chơi thứ bóng đá đơn giản là điều khó khăn”. Vâng! đó là câu châm ngôn của bóng đá được toàn thế giới khắc ghi từ Johan Cruyff.

1. Danh hiệu và thành tích

Club Ajax Amsterdam: (1964-1973, 1981-1983)
  • Vô địch Eredivisie (Giải Hà Lan): 1966,1967,1968,1970,1972,1973,1982,1983
  • Vô địch Cúp Hà Lan (KNVB): 1967,1970,1971,1972,1983
  • Vô địch Cúp Liên Lục địa (Intercontinental Cúp): 1972
  • Vô địch Siêu Cúp châu Âu (UEFA Super cup): 1972,1973
  • Vô địch UEFA Intertoto cup: 1968
  • Vô địch European Cúp (c1): 1971,1972,1973
  • Á quân European Cúp (c1): 1969
  • Giải thưởng Quả bóng Vàng:1971, 1973
Club Barcelona (1974-1978)
  • Vô địch La Liga (Giải Tây Ban Nha): 1974
  • Vô địch Cúp Nhà Vua (copa del Rey): 1978
  • Bán Kết European Cúp (C1): 1975
  • Giải thưởng Quả bóng Vàng:1974
  • Club Feyenoord (1983-1984)
  • Vô địch Eredivisie (Giải Hà Lan): 1984
  • Vô địch koninklijke Nederlandse Voetbal Bon Beker (KNVB): 1984
ĐT Quốc gia Hà Lan (Netherlands)
  • Á quân World Cup: 1974
  • Xếp Thứ 3 danh sách cầu thủ hay nhất thế giới (FiFa)
  • Cầu thủ số 1 châu Âu (UEFA)
Huấn luyện viên
  • Club Ajax Amsterdam: (1985-1988)
  • Vô địch Cúp Hà Lan (KNVB): 1986,1987
  • Vô địch UEFA Cup Winner’s Cúp (C2):1987
  • Á quân UEFA Cup Winner’s Cúp (C2):1988
  • Club Barcelona (1988-1996)
  • Vô địch La Liga (Giải Tây Ban Nha): 1991,1992,1993,1994
  • Vô địch Cúp Nhà Vua (copa del Rey): 1990
  • Vo địch Siêu cúp Tây Ban Nha (Supercopa de Épanna): 1991,1992,1994
  • Á quân European Cúp (c1): 1994
  • Vô địch Siêu Cúp châu Âu (UEFA Super cup): 1992
  • Vô địch UEFA Cup Winner’s Cúp (C2):1989
  • Á quân UEFA Cup Winner’s Cúp (C2):1991
  • Vô địch Champions League: 1992
  • HLV Trưởng ĐT Catalonia (2009-2011)

2. Tiểu sử

Hendrik Johannes Cruijff được sinh ra vào ngày 25/4/1947 tại Amsterdam, ở một con phố chỉ cách sân vận động của câu lạc bộ Ajax Amsterdam vỏn vẹn có 5 phút di chuyển. Đây cũng chính là câu lạc bộ bóng đá đầu tiên của ông trong sự nghiệp. Ông là người con trai thứ 2 trong một gia đình thuộc tầng lớp lao động ở phía Đông Amsterdam. Cha của ông là ông Hermanus Cornelis Cruijff, còn mẹ của ông là bà Petronella Bernarda Draaijer.

Từ nhỏ, Johan Cruyff đã được thừa hưởng tình yêu bóng đá từ người cha của mình, cộng thêm nơi ở của gia đình ông tại Akkerstraat rất gần với sân vận động De Meer (sân cũ của câu lạc bộ Ajax). Ông vẫn thường chơi đá bóng cùng với bạn bè cùng trường và người anh trai là ông Henny vào những khi rảnh rỗi. Thần tượng thuở nhỏ của ông là tiền đạo người Hà Lan Faas Wilkes.

Vào năm 1959, cha của Johan Cruyff qua đời sau một cơn đau tim. Cái chết của người cha đã có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của ông. Sau này, trong lễ mừng sinh nhật tuổi 50 của mình, Thánh Johan đã từng nói: “Cha tôi qua đời ở tuổi 45, và khi đó tôi mới chỉ 12 tuổi. Từ ngày đó, cảm giác sợ hãi cứ ngày càng lớn lên trong tôi. Tôi sợ rằng rồi mình cũng sẽ chết ở độ tuổi đó. Rồi đến khi tôi gặp phải vấn đề nghiêm trọng về tim vào năm 45 tuổi, tôi đã nghĩ: ‘Đến lúc rồi’. Chính y khoa, thứ khi đó không có để cứu sống cha tôi, đã cứu sống tôi”. Từ khi đó, ông quyết sẽ có được một sự nghiệp bóng đá lẫy lừng để tỏ lòng tôn kính với cha mình.

Khi không còn có thể tiếp tục lo việc ở tiệm tạp hóa sau khi chồng qua đời, mẹ của Johan Cruyff đã bắt đầu làm công việc dọn dẹp cho câu lạc bộ Ajax. Tại đây, bà đã gặp được ông Henk Angel, một công nhân nông trại, và sau này đã tái giá với ông. Chính ông Henk là người có tầm ảnh hưởng chính đến cuộc đời của Johan Cruyff. Khởi đầu từ đội bóng quê hương, Thánh Johan đã làm được còn nhiều hơn những gì ông muốn dành tặng cho người cha quá cố. Không chỉ có một sự nghiệp cầu thủ lẫy lừng, ông còn là một nhà cầm quân nổi danh thế giới.

3. Sự nghiệp câu lạc bộ

Ajax

Johan Cruyff gia nhập đội trẻ của Ajax vào sinh nhật lần thứ 10 của mình. Thuở nhỏ, ông cùng bạn bè thường chơi bóng tại một sân chơi trong khu họ sống. Huấn luyện viên đội trẻ của Ajax là ông Jany van der Veen sống ngay gần đó, và đã sớm nhận ra được tài năng của cậu bé Cruyff. Ông Jany đã quyết định dành cho Johan một suất trong đội trẻ của câu lạc bộ mà không cần phải qua sát hạch. Quyết định này của ông Jany đã khai sinh ra một huyền thoại và làm thay đổi cả bóng đá thế giới.

Tuy cũng có cả năng khiếu trong môn bóng chày, nhưng vào năm 15 tuổi, Johan Cruyff đã quyết định chỉ tập trung cho bóng đá. Ông ra mắt đội một vào ngày 15/11/1964 trong trận đấu với câu lạc bộ GVAV, và ghi bàn thắng duy nhất trong thất bại 1-3 của Ajax. Năm đó, Ajax kết thúc ở vị trí thấp nhất trong lịch sử của họ kể từ khi bóng đá chuyên nghiệp ra đời, đó là vị trí thứ 13.

Johan Cruyff chỉ thực sự bắt đầu gây được ấn tượng vào mùa giải 1965-1966, và được đá chính thường xuyên sau khi ghi bàn trong chiến thắng 2-0 của Ajax trước câu lạc bộ DWS vào ngày 24/10/1965. Tài năng ghi bàn của ông từ sau đó bắt đầu bùng nổ. Trong 7 trận đấu của mùa đông năm đó, ông đã ghi được tới 8 bàn. Vào tháng 3/1966, ông lập một cú hat trick trong trận thắng Telstar 6-2. Chỉ 4 ngày sau, ông lập một cú poker trong trận thắng 7-0 trước Veendam. Trong cả mùa giải đó, Johan Cruyff ghi được 25 bàn sau 23 trận đấu, giúp Ajax giành chức vô địch quốc gia.

Trong mùa giải 1966-1967, Ajax giành cú đúp danh hiệu (chức vô địch quốc gia và cúp quốc gia), còn Johan Cruyff lên ngôi vua phá lưới giải vô địch quốc gia Hà Lan với 33 bàn thắng. Mùa giải sau đó, Ajax tiếp tục lên ngôi vô địch, còn ông giành được danh hiệu Cầu thủ bóng đá Hà Lan xuất sắc nhất năm trong năm thứ hai liên tiếp. Vào ngày 28/5/1969, ông được chơi trận Chung kết Cúp C1 Châu Âu đầu tiên, nhưng đáng tiếng là Ajax lại gục ngã trước gã khổng lồ của bóng đá Ý là AC Milan với tỷ số 1-4. Sau đó, vào mùa giải 1969-1970, Ajax tiếp tục giành cú đúp danh hiệu quốc nội.

Đầu mùa giải 1970-1971, Johan Cruyff gặp phải chấn thương háng. Ông trở lại thi đấu vào ngày 30/10/1970, trong trận thắng 1-0 trước PSV. Lần này ông mặc số áo 14 chứ không phải số 9 như thường lệ. Thời ấy, những cầu thủ xuất phát trong trận đấu thường chỉ mặc số áo từ 1 đến 11, nhưng kể từ lúc đó, ông đã gắn bó với số áo 14, ngay cả khi thi đấu cho đội tuyển quốc gia Hà Lan. Mùa giải đó, Ajax lần đầu tiên giành Cúp C1 Châu Âu sau khi đánh bại Panathinaikos của Hy Lạp với tỷ số 2-0. Johan Cruyff ký hợp đồng 7 năm với Ajax. Cuối mùa giải đó, ông nhận danh hiệu Cầu thủ bóng đá Hà Lan xuất sắc nhất năm và Cầu thủ bóng đá Châu Âu xuất sắc nhất năm.

Năm 1972, Ajax giành chức vô địch Cúp C1 Châu Âu thứ hai liên tiếp sau khi chiến thắng với tỷ số 2-0 trước Inter Milan bằng cú đúp của Johan Cruyff. Sau chiến thắng này, báo chí Hà Lan tuyên bố lối đá phòng ngự kiểu Ý đã bị hủy diệt hoàn toàn bằng lối bóng đá tổng lực. Ajax tiếp tục giành thêm cú đúp danh hiệu quốc nội, và ông lên ngôi vua phá lưới giải vô địch quốc gia với 25 bàn thắng. Tiếp nối thành công đó, Ajax giành cúp Liên lục địa sau khi đánh bại đại diện của Argentina là Independiente với tổng tỷ số 4-1. Tháng 1/1973, họ giành Siêu cúp Châu Âu sau khi thắng Rangers của Scotland với tổng tỷ số 6-3.

Mùa giải 1972-1973 tiếp tục mang tới thành công rực rỡ cho Ajax, với chức vô địch quốc gia và chức vô địch Cúp C1 Châu Âu năm thứ 3 liên tiếp, sau khi đánh bại thêm một đại diện khác của bóng đá Ý là Juventus với tỷ số 1-0. Đó cũng là lúc Johan Cruyff chuyển sang một màu áo mới, khép lại hành trình ở đội bóng quê hương với thành tích 190 bàn thắng sau 240 trận đấu. Ông chơi trận cuối cùng cho Ajax vào ngày 19/8/1973, trong trận thắng FC Amsterdam với tỷ số 6-1. Đó là trận đấu thứ hai của Ajax trong mùa giải 1973-1974.

Barcelona

Johan Cruyff chuyển sang Barcelona với giá khoảng 2 triệu USD, mức giá chuyển nhượng kỷ lục thế giới vào thời đó. Ông đã chọn một cái tên Catalan để đặt cho con trai mình là Jordi. Sau này, Jordi Cruyff cũng chơi cho Barcelona khi ông làm huấn luyện viên của đội bóng này.

Ông đã giúp Barcelona giành chức vô địch La Liga lần đầu tiên kể từ năm 1960, còn đánh bại đại kình địch Real Madrid ngay trên sân Santiago Bernabéu với tỷ số đậm 5-0. Hàng ngàn cổ động viên Barcelona đã đổ ra đường ăn mừng. Một bài viết của tờ New York Times khi đó nói rằng Johan Cruyff chỉ cần 90 phút cũng có thể làm được nhiều điều cho tinh thần của người Catalan hơn là các chính trị gia làm trong nhiều năm. Năm 1974, ông nhận danh hiệu Cầu thủ bóng đá Châu Âu xuất sắc nhất năm. Tuy nhiên, trong những năm khoác áo Barcelona, ông không giành được thêm danh hiệu nào khác ngoài chức vô địch Cúp Nhà vua vào năm 1978, sau khi đánh bại Las Palmas với tỷ số 3-1.

Năm 1978, suýt chút nữa Johan Cruyff đã giải nghệ sau khi ra sân 143 lần cho Barcelona và ghi được 48 bàn thắng. Tuy nhiên, sau khi liên tục đầu tư thất bại và đánh mất hầu hết số tiền mình có, ông và gia đình đã chuyển đến Mỹ để bắt đầu lại từ con số 0. Thánh Johan khẳng định rằng quyết định quay trở lại với bóng đá ở Mỹ là điểm mấu chốt trong sự nghiệp của ông.

Los Angeles Aztecs  

Ở độ tuổi 32, Johan Cruyff ký hợp đồng với câu lạc bộ Los Angeles Aztecs của Giải vô địch bóng đá Bắc Mỹ (NASL). Dù chỉ chơi cho câu lạc bộ này đúng một mùa duy nhất nhưng ông cũng đã kịp giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của NASL.

Washington Diplomats

Mùa bóng sau đó, ông chuyển sang chơi cho Washington Diplomats. Ông chơi trọn vẹn mùa bóng năm 1980 cho câu lạc bộ này, bất chấp việc đội bóng gặp phải vấn đề nghiêm trọng về tài chính. Vào tháng 5/1981, ông chơi cho AC Milan với tư cách cầu thủ khách mời trong một giải đấu và gặp chấn thương. Điều này khiên ông phải bỏ lỡ giai đoạn đầu của mùa bóng năm 1981, và cuối cùng khiến ông đi đến quyết định rời đội bóng. Ông cũng không thích phải chơi trên mặt sân cỏ nhân tạo, loại mặt sân phổ biến tại NASL vào thời điểm đó thánh Johan khép lại hành trình trên đất Mỹ với 13 bàn thắng sau 23 lần ra sân cho Los Angeles Aztecs và 12 bàn thắng sau 30 lần ra sân cho    Washington Diplomats.

Levante

Vào tháng 3/1981, ông chơi trận đầu tiên cho Levante. Tuy nhiên, chấn thương cùng những bất đồng với ban lãnh đạo của câu lạc bộ đã khiến ông chỉ chơi 10 trận cho đội bóng này, ghi được 2 bàn thắng. Khi Levante không thể thăng hạng, hợp đồng của ông với câu lạc bộ cũng kết thúc.

Trở về Ajax

Sau quãng thời gian ngắn ngủi ở Tây Ban Nha, Johan Cruyff trở về quê nhà. Ông trở lại thi đấu cho Ajax vào ngày 30/11/1980, với tư cách cố vấn kỹ thuật cho huấn luyện viên Leo Beenhakker. Tại thời điểm đó, Ajax đang xếp thứ 8 sau 13 vòng đấu, nhưng khi kết thúc mùa giải, họ xếp ở vị trí thứ 2. Vào tháng 12/1981, ông gia hạn hợp đồng với Ajax. Cùng với sự có mặt của Thánh Johan, Ajax đã xuất sắc giành chức vô địch quốc gia mùa bóng 1981-1982 và 1982-1983, cùng Cúp quốc gia mùa bóng 1982-1983.

Feyenoord

Vào cuối mùa giải 1982-1983, Ajax đã quyết định không ký hợp đồng mới với Johan Cruyff. Điều này khiến ông giận dữ và quyết định đầu quân cho kình địch Feyenoord. Nhờ màn trình diễn tuyệt vời của ông kết hợp cùng Ruud Gullit và Peter Houtman, Feyenoord đã có một mùa bóng thành công với cú đúp danh hiệu quốc nội, danh hiệu vô địch quốc gia lần đầu tiên trong cả thập kỷ của đội bóng Dù đã lớn tuổi nhưng ông đã chỉ bỏ lỡ đúng một trận đấu trong mùa bóng đó. Ông giành được danh hiệu Cầu thủ bóng đá Hà Lan xuất sắc nhất năm lần thứ 5.

Vào cuối mùa bóng 1983-1984, ông tuyên bố chính thức giải nghệ ở tuổi 37.

4. Đội tuyển quốc gia

Johan Cruyff đã có 48 lần ra sân trong màu áo đội tuyển quốc gia Hà Lan và ghi được 33 bàn thắng. “Cơn lốc màu da cam” chưa từng thua trong bất cứ trận đấu nào có ông ghi bàn.

Ông ra mắt màu áo đội tuyển vào ngày 7/9/1966 trong trận đấu với Hungary ở vòng loại Euro 1968. Ông đã ghi bàn trong trận hòa 2-2. Trận đấu thứ hai của ông tuy chỉ là trận giao hữu (với đội Tiệp Khắc) nhưng lại khiến ông trở thành cầu thủ quốc gia Hà Lan đầu tiên phải nhận thẻ đỏ. Liên đoàn bóng đá Hà Lan đã quyết định không treo giò ông trên đấu trường quốc tế mà lại treo giò trong các trận đấu của Ajax.

Từ năm 1970, ông khoác số áo 14 ở đội tuyển quốc gia, tạo nên xu hướng chọn những số áo khác với một đội hình xuất phát thông thường (số 1 đến 11).

Thánh Johan đưa Hà Lan giành ngôi á quân World Cup 1974 và được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu. Nhờ vào lối chơi bóng đá tổng lực nhuần nhuyễn, “Cơn lốc màu da cam” đã quét sạch các đối thủ mạnh để lọt vào Chung kết. Họ thắng Argentina 4-0, thắng Đông Đức 2-0, thắng đương kim vô địch Brazil 2-0. Ông đóng góp một cú đúp trong chiến thắng trước Argentina và một bàn trong chiến thắng trước Brazil. Trong trận Chung kết với Tây Đức, ông không thể hiện được nhiều vì bị Berti Vogts kèm quá chặt. Hà Lan đành chịu thua 1-2 trước đội bóng của những Franz Beckenbauer, Uli Hoeneß và Wolfgang Overath.

Sau khi giúp Hà Lan lọt vào World Cup 1978, Johan Cruyff đã quyết định giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế. Thiếu vắng ông, Hà Lan vẫn một lần nữa giành được ngôi á quân. Lý do của sự vắng mặt này ban đầu được cho là liên quan đến chính trị, khi tại thời điểm đó, chế độ độc tài quân sự đang thao túng Argentina (quốc gia đăng cai World Cup 1978). Sau này, vào năm 2008, ông đã chia sẻ về lý do giã từ màu áo đội tuyển. Đó chính là do một vụ bắt cóc nhắm vào gia đình ông.

5. Lời kết

Hễ nhắc tới Johan Cruyff là người ta không thể không nhắc tới triết lý Bóng đá tổng lực. Đó là hệ thống mà mỗi cầu thủ rời khỏi vị trí của mình sẽ ngay lập tức được một đồng đội khác lấp vào, để giúp đội bóng duy trì được cấu trúc chiến thuật. Trong hệ thống linh hoạt như vậy, không có một cầu thủ nào bị “đóng đinh” vào vị trí cố định ban đầu của mình. Nếu huấn luyện viên Rinus Michels của Ajax là “cha đẻ” của lối đá này thì chính Johan Cruyff là đầu tàu hiện thực hóa nó trên sân bóng. Điểm chính của Bóng đá tổng lực chính là khoảng trống và tạo khoảng trống.

Nhạc trưởng Johan Cruyff là một cầu thủ tổ chức lối chơi đầy sáng tạo, với khả năng tung ra những đường chuyền chính xác cả về không gian lẫn thời gian. Về lý thuyết, ông chơi ở vị trí tiền đạo cắm trong sơ đồ này và cũng là cầu thủ ghi được rất nhiều bàn thắng. Tuy nhiên, thực tế ở trên sân, ông lại lùi sâu để đánh lạc hướng cầu thủ theo kèm hoặc di chuyển sang cánh. Dựa vào cách chơi bóng, Thánh Johan vẫn thường được gọi là “cầu thủ bóng đá tổng lực”. Cựu danh thủ Eric Cantona đã từng ca ngợi: “Nếu muốn, ông ấy có thể trở thành cầu thủ xuất sắc nhất tại mọi vị trí trên sân”.

>> Xem thêm: Soikeobong – Soi kèo nhà cái bóng đá chuẩn xác nhất

Bài viết cùng chuyên mục